Little Saigon: Một
chút đa nguyên và đối thoại trong "Ngày Văn Hóa VN"
LITTLE SAIGON (VH) - Một buổi sinh hoạt đặc biệt của Hội Lê Văn
Duyệt Foundation tổ chức tại hội trường báo Việt Báo hôm Chủ nhật 20 tháng 3,
2016 tạo nhiều không khí mới lạ trong sinh hoạt cộng đồng Việt Nam tại Little
Saigon.
Hội Lê Văn Duyệt
Foundation do Ts Nguyễn Thanh Liêm, nguyên Thứ trưởng bộ Văn Hóa, Giáo dục và
Thanh niên VNCH sáng lập tại Mỹ.
Trong buổi sinh hoạt
hôm Chủ nhật vừa qua, ông Hoa Thế Nhân, một nhà hoạt động kỳ cựu trong cộng
đồng, trưởng ban tổ chức và các ông Châu Văn Đễ , Nguyễn Quang Bân đã tổ chức
một buổi sinh hoạt quy tụ nhiều diễn giả thuyết trình về các đề tài thuộc phạm
trù Văn hóa Dân tộc, Tôn giáo và Sức khỏe.
Tinh thần dân chủ đa
nguyên thể hiện qua các bài tham luận và ý kiến của các ông Hoa Thế Nhân, Phạm
Gia Cổn, Hiền tài Phạm Văn Khảm, Trần Văn Chi, Anthony Thức Nguyễn (đại diện
TNS Janet Nguyen lên tặng bằng tưởng lục)...
Trong số các vị khách tham dự nhận thấy có Ts Trần Huy Bích, Gs Dương Ngọc Sum,
Gs Nguyễn Đình Cường, ông Bùi Phát ứng cử viên Giám sát viên Quận Cam và bà
Kimberly ứng cử viên Nghị viên Thành phố Westminster.
MC điều hợp chương
trình là ông Phạm Văn Tú và bà Cao Minh Châu. Xen kẽ buổi nói chuyện là phần
văn nghệ của các anh chị em nghệ sĩ thuộc Câu Lạc Bộ Tình nghệ sĩ do Nha sĩ
Nhạc sĩ Cao Minh Hưng làm trưởng ban.
Tiến sĩ Nguyễn Thanh
Liêm là vị diễn giả danh dự đầu tiên được mời phát biểu về chủ đề của
"Ngày Văn Hóa VN". Ts Liêm dù tuổi khá cao, ông cho biết dù mắc bệnh
khá nặng trong thời gian qua (sụt mất 40 pounds) nhưng thiết tha - tâm huyết
với công việc bảo tồn và phát huy dòng Văn Hóa Việt Nam tại hải ngoại, ông luôn
mang hoài bão đóng góp cho nền văn hóa nước Việt. Với giọng nói hùng hồn,
nội dung đa chiều, bài diễn văn mở đầu của Ts Liêm thuyết phục ngay phút đầu
tiên của buổi thuyết trình. Tuyển tập mới nhất của Ts Liêm mang tựa đề: Nguyễn
Thanh Liêm, Tuyển tập được ông Trần Văn Chi giới thiệu ra mắt lần đầu tại
Little Saigon.
Dưới đây là nguyên văn
các bài thuyết trình của các diễn giả.
Ý nghĩa của Văn Hoá
(Tiến sĩ Nguyễn Thanh
Liêm)
Kính thưa quý vị và
các bạn
Từ hơn mười mấy năm qua, chúng tôi đều tổ chức
ngày văn hoá hằng năm để cổ võ việc nghiên cứu và phát triển về những vấn đề
sinh hoạt văn hoá trong xã hội Việt Nam.
Nhưng văn hoá là gì?
Một số người Việt Nam
cho rằng văn hoá có nghĩa là thanh cao, lịch sự, nhả nhặng, khoan dung, khác
với sự tầm thường, lỗ mãn, cục mịch. ác độc. Với ý nghĩa đó, người ta nói người
Việt tự do, nhân bản, lịch sự là người có văn hoá. Ngược lại người Việt cộng
sản, độc tài toàn trị, ngu đần, bất lịch sự, tàn bạo, không có văn hoá. (Việt
Cộng không có văn hoá, chỉ có người Việt tự do nhân bản với có văn hoá). Thật
ra chúng tôi không chủ trương văn hoá theo ý nghĩa đó.
Theo chúng tôi, một
cách tổng quát, văn hoá là nếp sống của con người trong xã hội. Nói khác đi văn
hoá là tất cả những sinh hoạt của con người trong một xã hội. Học hành, làm
việc, cưới vợ, sanh con, tôn sùng, lễ bái, tôn giáo, chính trị, kinh tế, nghệ
thuật, v.v… đều thuộc sinh hoạt xã hội của con người, nghĩa là văn hoá cả.
Chúng tôi theo đúng môn văn hoá nhân loại học, cultural anthropology, một ngành
khoa học chú trọng về các phần học thuật liên hệ tới ngôn ngũ, tôn giáo, hôn
nhân, kinh tế, chính trị, nghệ thuật, nhân cách, giá trị, v.v… Theo ý nghĩa đó
người Việt Nam dù là tự do hay là cộng sản cũng là người có văn hoá cả. Cái
khác biệt là văn hoá nhân bản, tự do, của người Việt Nam rất khác biệt với văn
hoá vô nhân bản, độc tài toàn trị, hẹp hòi của cộng sản.
Trong sinh hoạt văn
hoá có hai chức vụ trọng yếu, không thể thiếu được là xã hội loài người và giáo
dục. Không có một cộng đồng, không có một nhóm người sống chung thì không thể
là một sinh hoạt văn hoá. Có một cộng đồng, có một nhóm người sống chung với
nhau mà không có giáo dục thì cũng không thành văn hoá. Sinh hoạt bẩm sinh
(instint) không thuộc về văn hoá. Như loài kiếng, loài ông, có thể có xã hội
nhưng có văn hoá. Phải có giáo dục như xã hội loài người mới có văn hoá.
Giáo dục để trở thành
một con người trong xã hội, đó là tiến trỉnh xã hội hoá của con người. Đó là
tiến trình được nuôi dưỡng, được uốn nắng, được giáo dục để trả thành một con
người trong xã hội. Nói riêng về giáo dục, chúng ta có 3 cách giáo dục cho con
người đó là giáo dục trong gia đình là một, giáo dục ở học đường là hai, và
giáo dục trong trường đời (xã hội) là ba. Cả ba nền giáo dục đó đã kết thành
một con người giáo dục trong xã hội vậy. Việt Nam Công Hoà, hay Việt Nam cộng sản
cũng đều trải qua ba cách giáo dục đó. Cái khác lớn lao nhất là cái khác trong
các nền giáo dục ở mỗi nọi, mỗi hoàn cảnh, mỗi môi trường. Cha mẹ dạy con thế
nào, trường học dạy con thế nào, cuộc đời dạy con người như thế nào, tất cả là
văn hoá khác biệt vậy.
Nhưng giáo dục không
bao giờ hoàn hảo. Người dạy cũng như người học lúc nào cũng muốn được thành tựu
tốt đẹp nhất, nhưng không bao giờ hoàn hảo được. Ở một phía cạnh nào đó, con
người vẫn còn thấy một thiếu vắng nào đó trong sinh hoạt của con người.
Chương trình nghiên
cứu/phát triển về văn hoá nhằm bổ sung phần nào đó cho những khiếm khuyết có
thể có trong đời. Chương trình văn hoá của chúng tôi nhắm vào tổ chức đó, dù
hay dù dỡ, dù tốt hay không không được tốt.
Lần nầy chúng tôi sẽ
đề cập đến vấn đề tôn giáo, và sau đó vấn đề sức khoẻ, dinh dưỡng cho con
người. Đây là một số trong những chương trình hoạt động của văn hoá Việt Nam.
Trong tương lai chúng ta sẽ mời đến những vị khoa bảng, những học giả, những
chuyên viên, những bậc cao thâm đức trọng, đến thuyết trình cho các thính giả
chọn lọc như hôm nay vậy.
Chúng tôi xin hết sức
cám ơn quý vị và các bạn.
Nguyễn
Thanh Liêm./
Diễn giả Hoa Thế Nhân dẫn lời mở bài
thuyết trình nói rằng:
"Trước các bậc
thầy, các bậc đàn anh mà thuyết trình về một đề tài có tính triết học và tôn
giáo như thế nầy thì tôi rất bối rối vì sợ không đủ kiến thức để thuyết phục cử
tọa, nên tôi tự giới hạn tư cách mình chỉ là một người đi tỉm hiểu về một nét
trong văn hóa Việt là tính hòa đồng tôn giáo
của người Việt đặc biệt thể hiện qua đạo Cao Đài và tôi cũng chỉ nêu ra những gợi ý và mong chờ
sự đóng góp chỉ bảo của quí cử tọa hiện diện ..."
Tính hòa đồng tôn giáo
của người Việt thể hiện qua đạo Cao Đài
Tôn giáo là môt hiện
tượng của văn hóa phát xuất từ tư tưởng thần quyền của nhân loại. Nó là kết quà
của sự cố gắng của con người để giải thích các hiện tượng siêu nhiên quanh mình
như mưa, nắng, gió, cầu vòng, nhật nguyệt thực,núi lủa, động đất,
tsunami v.v.. Trong sự hoạt động để sinh tồn, con người nguyên thủy phải
đương đầu với nhiều sức mạnh thiên nhiên rất mạnh mẽ vượt ngoài tầm hiểu biết
cùa họ. Lúc đó con người chưa đủ tri thức khoa học để giải thích mọi liên hệ
nhân quả tất yếu giữa các hiện tượng thiên nhiên quanh mình nên họ tìm ra ý
niệm thần linh để giải đáp rằng mọi hiện tượng siêu nhiên đều do một vị thần
tác động và điều khiển. Từ đó ý niệm thần linh xuất hiện và các vị thần
linh nầy đều có khả năng và sức lực siêu phàm để bảo vệ và che chở họ trước các
hiện tượng siêu nhiên.Từ đó việc cúng bái tôn thờ thần linh bắt đầu và dần dà
tư tưởng tôn giáo xuất hiện.
A. Các tôn giáo lớn đang hiện hành tại Việt Nam.
a/ Phật giáo:
Việt Nam nằm trên
đường giao lưu Ấn Độ và Trung Hoa nên Phật giáo truyền bá vào VN qua hai ngã
đó,Bắc tông ở miền Bắc và Nam Tông ở miền Nam. Khái quát Triết lý của Phật giáo
cho cuộc đời là bể khổ, con người sống ở đời là phải chịu khổ nên phải tìm cách
diệt khổ. Nguyên nhân sự khổ là lòng ham muốn. Do đó con người phải diệt sự ham
muốn thì mới tự giải thoát khỏi vòng luân hồi để chấm dứt khổ não. Đối với sanh
linh thì Phật giáo chủ trương không sát sanh và người tu hành luôn tu tập để
lòng thanh tịnh hầu tự giải thoát và cứu độ chúng sanh.
b/Thiên chúa giáo: Theo TCG, linh hồn con người do Thượng Đế sinh
ra nên bất diệt, sau khi người chết linh hồn người hoàn thiện được lên thiên
đường còn người xấu thì xuống địa ngục, còn những người tốt nhưng mắc phải lỗi
lầm phải qua lò luyện tội trước khi lên thiên đường.Thế giới sẽ tới lúc tận
thế,ngày tận thế chúa Trời sẽ hiện ra và nhân loại sẽ chịu sự phán xét cuối
cùng. Người tốt sẽ lên Thiên đường ở với Ngài, người xấu sẽ bị sa vào địa ngục
chịu sự trừng phạt đời đời.
c/ Nho giáo: Nước Trung Hoa bị rối loạn trong thời Xuân Thu
chiến quốc, xã hội loạn ly đạo đức suy đồi, lòng người ly tán nên Đức
Khổng Tử đưa ra phương sách cứu đời là xây dưng một xã hội hài hòa ổn định.Giáo
dục được xử dụng như là công cụ để thiết lập một xã hội có tôn ti trật tự, trên
thuận dưới hòa, làng nước trên dưới phân minh, ăn mặc, nói năng hành động theo
qui tắc lễ nghỉa được ấn định. Từ Thiên tử cho đến dân thường đều phải lo tu
dưỡng đạo đức và cư xử với nhau theoTam cang, ngũ thường
d/ Lão giáo: Chủ trương xuất thế và vô vi tức là cứ để
mọi việc xảy ra và kết thúc tự nhiên không tác đông vào sự kiện tức là tự sinh
tự diệt.Triết lý của Đạo gia thiên về khuynh hướng thần bí và các phép thuật
như bói toán, chiêm tinh, pháp thuật, luyện thuốc trường sinh bất tử tu
tiên để siêu phàm và bất tử.
e/ Hồi Giáo : Du nhập vào Việt Nam khá sớm. Tín đồ Hồi giáo
ở VN có khoảng trên trăm ngàn người. Hầu hết trong số họ là những người thuộc
dân tộc Chàm, dân tộc Khmer và một bộ phận nhỏ người gốc Malaysia, Indonexia và
Nam Ấn Độ.
Phần lớn tín đồ Hồi
giáo sống ở các tỉnh miền Trung và Nam bộ. Sinh hoạt tôn giáo của những người
theo đạo Hồi ở Việt Nam vẫn duy trì những nghi lễ Hồi giáo chung như cầu kinh
Koran, thờ linh vật, cử ăn thịt heo, trang phục khăn chít trên đầu. Ngoài
những nét sinh hoạt chung đó, tín đồ Hồi giáo còn có những nét riêng như không
có tục hành hương tập thể đến thánh địa Mecca hàng năm trong lễ ăn chay, hoặc
chỉ đọc kinh mỗi tuần một ngày thay vì đọc kinh 5 lần một ngày.Các thắng
tíchTháp Chàm ở các tỉnh miền Nam Trung phần và đền thờ Hồi giáo tại Sàigòn đều
được đồng bào cả nước viếng thăm và chiêm bái.
f/ Cao Đài: Vũ trụ
quan và nhân sinh quan
-Trời đất vạn vật có
cùng một bản thể được điều phối bởi một Đấng tối cao gọi là Ngọc Hoàng Thượng
Đế.
- Do sự chuyển dịch
tuần hoàn của lưỡng nghi, tứ tượng, bát quái ra thành vạn linh kết từ cát bụi,
thảo mộc, cầm thú rồi đến nhơn sanh.
- Do sự tu tập tinh tấn từ cỏi trần vạn linh sẽ quay về nguồn gốc, tức là sau
khi quy tiên sẽ trở về với Đức Thượng đế Tức là Đấng Cao Đài, hình tượng là
Thiên nhản ngự trên quả Càn Khôn.
g/ Hòa Hảo: Có nguồn gốc từ Phật giáo , nên nền Tảng triết
lý của Phật giáo Hòa Hảo là lý tưởng từ bi bác ái đại đồng và luật nhân quả của
nhà Phật. Đạo Hòa Hảo không thờ hình tượng và đề cao thuyết ”Phật tức tâm” nên
phương thức hành đạo và tu tập rất giản dị.
Đó là các tôn giáo có
hàng triệu tín đồ trở lên, ngoài ra còn có đạo Tin Lành, đạo Tổ tiên và các tín
ngưởng dân gian như Thờ Mẫu( Bà Chúa Thượng ngàn, Mẫu Thiên Y Ana,Linh sơn
Thánh Mẫu) thờ Chư vị, thờ Thành Hoàng, thờ các bậc tiền nhân có công với đất
nước và dân tộc như Đức Thánh Trần, Đức Tả quân Lê văn Duyệt v.v...
B. Đặc điểm tôn giáo của người Việt
Nhìn một cách tổng
quát, tôn giáo Việt Nam có một số điểm căn bản sau đây:
1.Tôn giáo Việt Nam chính yếu thuộc về lãnh
vực tình cảm.
Nhiều tín đồ rất sùng
đạo nhưng hiểu giáo lý một cách sâu sắc rất ít, thâm chí gia nhập hàng ngũ tín
đồ do lan truyền tâm lý hay do sự vân động lôi kéo nào đó. Đa phần thường khi
gặp trắc trở hay khó khăn nào đó trong thực tại cuộc sống thì họ tìm đến tôn giáo
để cầu mong một chốn nương tựa tinh thần, một sự giải thoát hay một niểm hy
vọng cho tương lai hay ít ra cũng là một sự an bình tâm lý. Vì vậy người Việt
Nam dể tiếp nhận tôn giáo trong sinh hoạt hàng ngày.
2. Các tôn giáo du
nhập vào Việt Nam ít nhiều đều được Việt Nam hóa
Trong quá trình giao
lưu giữa các dòng chảy văn hóa
của nhân loại thường tạo ra những tiếp biến. Chúng thẩm thấu, bổ túc và biến
cải lẫn nhau.Tại Việt Nam hàng ngàn năm trước khi có các tôn giáo lớn như Phật
giáo, Khổng giáo, Thiên chúa giáo, du nhập vào thì đã có sẳn các hình thức tín
ngưỡng dân gian như thờ tổ tiên ông bà, thờ mẫu, thờ chư vị, thờ thánh hiền
hoặc những vị có công trận, v. v...Các tín ngưỡng dân gian truyền thống
nầy có những nét tương đồng với vũ trụ quan và nhân sinh quan của
các tôn giáo ngoại nhập nên người Việt Nam dể chấp nhận, tôn trọng và tin
theo những tín điều của các tôn giáo từ ngoài vào để vun bồi thành những tư
tưởng, triết học, đạo đức, nghệ thuật rất cá biệt của nền văn hóa và lịch
sử Việt Nam.
3.Người Việt Nam giàu tính khoan dung và có
tinh thần hài hòa nên sẳn sàng chấp nhận
sự hòa hợp hay hòa đồng tôn giáo. Đây là một biểu hiện của sự đoàn kết dân tộc
trong tinh thần tự do tín ngưởng ở Việt Nam. Đã có nhiều cuộc chiến tranh trong
quá trình lịch sử của chúng ta nhưng không phải vì lý do mâu thuẩn tôn giáo,
trong khi đó ở nhiều nước trên thế giới đã xảy ra những mâu thuần gay gắt giữa
các tôn giáo trong một nước thâm chí đưa tới các cuộc chiến tranh tôn giáo.
Tóm lại, một cách tổng thể thì tại Viêt Nam tinh thần hòa đồng tôn giáo
để cùng tồn tại và phát triển được xiển dương mạnh mẻ. Đa phần tín đồ tôn giáo
khác nhau đều có chung niềm tin vào đấng Thương đế hay đấng thiêng liêng tối
cao. Và nhờ vào lòng nhân ái khoan dung là bản chất của người Việt nên khi tiếp
xúc với tư tưởng từ bi hỷ xã của Phật giáo hay đức bác ái yêu thương của Chúa
Trời hay tinh thần tôn ti trật tự của Nho giáo thì người Việt dể dàng đồng cảm
và chấp nhập
C. Tính hài hòa tôn giáo trong đạo Cao Đài:
Vì xuất phát từ
miền Nam Việt Nam, nơi mà nhờ vi trí địa lý người dân được tiếp xúc
và giao lưu với nhiều nền văn minh khác nhau như Trung Hoa Ấn Độ, Trung
Đông, Âu Mỹ nên lối sống và suy nghĩ của người dân có phần thông thoáng
hơn các dân tộc ở sâu trong đại lục. Tâm trạng của người dân cũng rất thích mô
phỏng nhửng gì hay đẹp của người khác . Nói chung là không thủ cựu cứng ngắt
trong tư duy và luôn có xu hướng biến cải để tồn tại và phát triển.
Nhơn sanh Cao Đài được
dạy rằng:
- Đời Thượng ngươn Thánh Đức (Ngươn Tạo hóa) là thời kỳ tạo
thiên lập địa, Đạo Đức được đề cao trong ngươn nầy nên con người sống về
thiện lương thuần phát hợp với Đạo Trời, tạo nên một xã hội thuần phát
thanh bình an lạc.
- Trung ngươn: Thời nầy con người lấy sức mạnh để giải quyết
các mâu thuẩn, tranh đấu bằng sức mạnh để thống trị lẫn nhau nên xả hội đầy dẩy
bất công áp bức, mạnh được yếu thua nên Thượng đế phài phái các bậc đại diện
như Đức Phật Thích Ca, Đức Khổng,Đức Chúa Giêsu ,Đức Mohamed, v..v...khai mở
Nhị kỳ Đại đạo để phổ độ và giáo hóa chúng sanh.
- Hạ ngươn: Thời hiện tại chúng sanh đang sống. Con người ngày càng thông
minh nên lấy trí não làm đầu,xử dụng trí năng cơ xão để chiếm đoạt sở hữu tài
vật, do đó chiến tranh lan tràn đưa loài người đến tận thế.
Vì lý do đó mà Đấng
chí Tôn đã dung cơ bút huyền diệu khai sang Đại đạo Tam kỳ Phổ Độ để độ rỗi
linh hồn cho nhơn sanh và dẩn dắt chơn linh của nhơn sanh về lại với thời
Thượng ngươn thánh đức.
Với một quan niệm và
lý luận thần học như vậy nên đạo Cao Đài coi Tôn giáo uyên nguyên chỉ có Một do
một Đấng tối cao là chủ thể . Rồi từng thời kỳ ngài sai phái các chơn thần lúc
thì Phật, lúc thì Chúa , lúc thì Khổng, lúc Lão, lúc các bậc đế Vương xuống cỏi
trần đem đạo Trời của ngài để cứu độ chúng sanh.
Với niềm tin Đạo chỉ
là Một, Thượng đế là Một nên đạo Cao Đài cơ bản phù hợp với tính khoan dung và
hòa hợp tôn giáo của người Việt. Cao Đài cũng là một trong những đạo nội
sinh tại Việt Nam nên đã hòa quyện vào dòng chảy văn hóa hòa đồng tôn giáo của dân tộc
Việt. Đồng thời cũng nhờ
vào tính bao dung và tôn giáo đặc biệt của người Việt nên tại Việt Nam mặc dù
xảy ra biết bao cuộc chiến tranh trong lịch sử nhưng không có tình trạng mâu
thuẩn tôn giáo đến độ tàn sát giết chóc lẫn nhau trong cùng nòi giống mà hiện
nay đang xãy ra ở nhiểu nơi trên thế giới./
TINH THẦN DUNG HỢP TÂM LINH Ở ĐẠO CAO ĐÀI GÓP
MẶT VỚI NGÀY VĂN HÓA VIỆT NAM
(Diễn giả Hiền Tài
Phạm Văn khảm)
(do Hội Lăng Ông Đức Tả Quân Lê văn Duyệt tổ
chức ngày 20/3/2016 Tại thành phố Westminster- California).
Kính thưa Chư
Huynh Tỷ Đồng Hương,
Ở VN không thấy việc thờ Thần Mây, Thần Mưa, Thần Gió....như là một tôn giáo.
Tuy nhiên việc thờ Thần được phổ biến qua những vị Thần có công với đất nước,
sống sáng chói với những đức tính Trung, Cang, Nghĩa, Khí.....Có sắc Vua phong
và thờ ở Đình làng. Vua là Thiên Tử là con của Trời nên Vua được quyền
phong Thần và chỉ có Vua mới được Tế Trời qua Đàn Nam Giao hàng năm ở Huế. Hàng
thứ dân không được phép tế lễ, chỉ ngưỡng vọng Ông Trời ở Bàn Vọng Thiên đặt
trước sân nhà để cầu nguyện....Ngoài ra, trong đời sống hằng ngày cũng như
trong Văn học, nhứt là Văn Chương Bình Dân, với dân tộc Việt Nam, Ông Trời luôn
luôn hiện hữu và dính liền nơi cửa miệng của mỗi người.
Điều đó đủ chứng minh dân tộc Việt Nam có một tín ngưỡng tâm linh hết sức căn
bản là thờ Trời. Vậy đạo thờ Trời vốn có trong tâm của người dân Việt từ ngàn
xưa. Nay Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế khai đạo Cao Đài ( Đạo Trời ) tại Việt
Nam quả cũng là một trong những duyên lành mà Tổ Tiên chúng ta đã tạo được cái
nhân từ trước....
Nói rõ hơn, trước khi du nhập các tôn giáo như Phật giáo từ Ấn Độ, Khổng giáo,
Lão giáo từ Trung Hoa, Thiên Chúa giáo từ Âu Châu.....VN có một nền tảng vững
chắc về đời sống tín ngưỡng tâm linh là Thờ Trời, Đấng Chúa Tể Càn Khôn Vũ
Trụ....Thế nên việc du nhập các nền chánh giáo từ các nước ngoài vào VN đều
được kết hợp một cách ôn hòa....Nhất là, người Vệt Nam tin tưởng các Đạo ấy tuy
danh xưng khác nhau, nhưng đều cùng phát sinh từ một Ông Trời....Đặc biệt hơn,
với tánh bao dung của người Việt Nam thể hiện qua tư tưởng:" Đạo nào cũng
dạy làm lành lánh dữ"...Đó chính là duyên kết hợp huyền diệu với tôn chỉ
Tam Giáo Qui Nguyên và Ngũ Chi Phục Nhứt của Đạo Cao Đài.
Nói tới đạo Cao Đài ai ai cũng nghĩ đến Tòa Thánh Tây Ninh và các ngôi Thánh
Thất ở nhiều nơi trên thế giới, đó là những nơi thờ Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế và
các Đấng Thiêng Liêng. Với hình thể của các ngôi điện thờ nầy được xây dựng
theo lối kiến trúc hết sức đặc biệt: Không cổ, không kim, không Âu, không Á, nghĩa
là Cổ Kim kết hợp, Âu Á hài hòa...và chứa đựng các sắc thái của các tôn giáo đã
có từ ngàn xưa... đủ nói lên sự dung hợp của các nền chánh giáo đã có từ xưa
đến nay, hiệp nhứt đức tin vào Đấng Chủ Tể cả Càn Khôn Vũ Trụ, đồng thời cũng
nói lên sự nối liền giữa Âu Á để các dân tộc kết hợp thành một Cộng Đồng Nhơn
Loại cùng sống với nhau trong luật Thương Yêu và quyền Công Chánh mà Thượng Đế
đã ký kết với nhơn loại trong bản Thiên Nhơn Hòa Ước ngay khi khai sáng nền Đại
Đạo Tam Kỳ Phổ Độ.
Với Thánh
Thất, Đức Chí Tôn từng khẳng định:" Thầy lập Thánh Thất, nơi ấy là nhà
chung của các con và Thầy là chủ của ngôi nhà ấy."
Ngoài ra Đức Chí Tôn còn xác định rõ: Các con không phải là một nhóm người như
các con tưởng, mà là toàn cả nhơn loại.
Vậy thì thử hỏi trên thế giới nầy, ở đâu có ngôi nhà lý tưởng như vậy ? Bởi
vì:" Nơi đó, người Âu cũng
như người Á, người tín ngưỡng cũng như người không tín ngưỡng, kẻ thì tôn sùng
Chúa, kẻ thì thờ Phật Thích Ca, kẻ thì chiêm ngưỡng Khổng Tử.... đều có thể
nâng cao tâm hồn của họ trong niềm hy vọng ưa thích. Thử hỏi, hiện nay quí vị
tìm ở đâu có sự tổng hợp tâm linh đó trong cái thế giới bị chia rẻ vì vât chất,
bị nung đốt bởi hận thù, bị đổ máu vì chiến tranh....? Thánh Thất Cao Đài quả
là nơi tốt để tác động tình huynh đệ giữa loài người, tình thân hữu giữa các
nòi giống, sự liên đới giữa các lục địa mênh mông.... ( Trích đoạn : Lịch Sử và Triết Lý Đạo
Cao Đài trang 273).
Để minh định cụ thể hơn về tinh thần dung hợp tâm linh ở Đạo Cao Đài, chúng tôi
xin trích dẫn câu trả lời của Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc, vị lãnh đạo tối cao
đạo Cao Đài trong cuộc phỏng vấn của nhựt báo" Người Cao Miên" ngày
30 tháng 5 năm 1937 khi hỏi về Chúa và được Ngài khẳng định như sau:
" Đạo Cao Đài không định
phá hủy giáo lý của Chúa, trái lại củng cố giáo lý nầy, bởi vì không thể nào
phủ nhận sự hiện hữu của Chúa.Chúng tôi cố gắng chuẩn bị phục hưng toàn nhơn
loại bằng tâm linh, dường như nhơn loại đã quên hết phương ngôn của Chúa,
phương ngôn sẽ gìn giữ hòa bình cho thế giới, nếu được tuân theo....
Đạo Cao Đài là cây cầu bắc qua cái hố phân chia Chúa với Phật là vị tiền bối,
thuở trước hố sâu xem chừng không vượt qua được, và sự hòa hợp hai giáo lý bổ
khuyết lẫn nhau là cần thiết cho các dân tộc Tây Phương và Á Châu thống nhất
trong tình huynh đệ."
Nói tóm lại, với giáo lý Cao Đài càng nhìn sâu, chúng ta càng thấy đạo Cao Đài
là một tổng hợp tôn giáo bằng Tinh Thần và Chân lý thế nên nhờ đó nhơn loại sẽ
lập đươc đời Thánh Đức trên mặt Địa cầu thứ 68 nầy với một thế giới hòa bình
vĩnh cửu. Ngoài ra đạo Cao Đài còn cung cấp cho nhơn loại một giáo lý mới, một
giáo lý bao gồm tất cả giáo lý hiện hữu mà vẫn giữ nguyên vẹn tinh túy triết lý
của từng giáo lý và được nhìn nhận là chân lý vĩnh viễn, bất di bất dịch của
Thiên Điều.
Đó là một dung hợp vi diệu mà Thượng Đế ban cho loài người đang ở vào thời kỳ
cần có sự tự do tín ngưỡng rộng rãi và siêu việt hơn. Xin cúi đầu cảm tạ Thượng
Đế.
Trân trọng kính chào chư liệt vị.
Hiền Tài Phạm văn Khảm
Đời Sống và Sức Khỏe của Người Cao Niên
(Diễn giả Bác Sĩ Phạm-Gia Cổn)
Định Nghĩa “Cao Niên” (Tuổi Già):
Định nghĩa này có tính
tương đối vì tùy thuộc vào những nghiên cứu khác nhau, dựa trên những sự khác
biệt về địa lý, thời gian, xã hội, và văn hóa. Định mốc tuổi Cao Niên cũng được
thay đổi theo luật cung cầu của xã hội về quyền lợi “hưu trí” hoặc “An Sinh Xã
Hội”
Định nghĩa theo Y Học,
dựa theo khả năng sinh sản: người đàn bà ở tuổi mãn kinh (menopause), người đàn
ông ở tuổi manopause, không còn khả năng sinh sản.
Liên Hiệp Quốc lần đầu
tiên định mốc Cao Niên ở tuổi 60+. Sau những quan sát về cuộc sống xã hội tại
Phi Châu, WHO định mốc tuổi Cao Niên cho xã hội Phi Châu bắt đầu ở tuổi 50+.
Cũng theo WHO, định mốc của tuổi Cao Niên không tùy thuộc vào tuổi tác, mà tùy
thuộc vào khả năng làm việc cũng như sự cống hiến của đương thời (active) cho
xã hội và cộng đồng họ đang sinh sống.
Theo tôi, với thời
gian ngắn ngủi của 100 năm cuộc đời, ta còn thấy có “già”, có “trẻ”. Nhưng nếu
đem so sánh với 4000 năm dựng nước và giữ nước của dân tộc ta, và với quan niệm
phục vụ con người, đóng góp công ích cho xã hội thì “chúng ta đều trẻ cả,
chỉ ít “trẻ” hơn nhau mà thôi”.
Bất kỳ ở tuổi nào mà
không đóng góp, không phục vụ thì xem như là đã “tàn phế”!
Tăng Trưởng và Phát
Triển của Đời Sống:
Trong cơ thể một con
người bình thường thì mọi cơ quan tăng trưởng vào mức tối đa ở tuổi 30. Sau đó
mọi chức năng sẽ suy giảm khoảng 1% mỗi năm.
Với phương tiện tân
tiến hiện nay, y học đã khẳng định rằng trong não bộ có những vùng liên quan
đến những tinh thần tình cảm của con người chẳng hạn như lòng từ bi, bác ái;
liên quan đến sự tinh nhậy của lý luận (trường hợp những người giỏi toán học),
hoặc liên quan đến sự khéo léo mang tính nghệ thuật (âm nhạc, hội họa v.v..),
hoặc sáng tạo.
Người Á Đông quan
niệm: “Tam tập nhi lập”: 30 tuổi là tuổi cao điểm cho sự học hỏi lập thân,
thành công và vững vàng địa vị trong xã hội. Sự học hỏi bao gồm từ Trường đời
với ảnh hưởng của gia đình, và phong tục tập quán của xã hội; và từ Học đường,
dưới hệ thống giáo dục của mỗi quốc gia. Nền giáo dục dưới thời VNCH dựa trên
căn bản của “nhân bản, dân tộc, và khai phóng” nên đã ảnh hưởng không ít đến
tinh thần và cách sống của người Việt ở tuổi cao niên.
Văn hóa của một dân tộc đóng một vai trò rất lớn đến cuộc sống sức khỏe và tinh
thần của người cao niên. Nói một cách khác, nhìn những sinh hoạt của người cao
niên, ta có thể thấy được sự Tương quan giữa Văn Hóa và Đời sống con
người: Văn
hóa là giá tri tinh thần do người tạo ra, đông thời ảnh hưởng tới Đời sống con
người. Đời sống thể hiện nét Văn hóa
Văn hóa phát triển
theo thời gian và môi trường sống. Người Việt tị nạn đã và đang đương đầu với
vấn đề hội nhập để thích nghi, cũng như làm phong phú văn hóa tại các xứ sở mà
họ đang sinh sống. Vì hiểu được tầm quan trọng của sự hội nhập, duy trì những
đặc tính này, và để giữ cho chúng ta cũng như văn hóa của chúng ta luôn “trẻ
mãi”, chúng tôi: gồm PGC và một vài anh em đã thành lập tổ chức: “Volunteers
for Integration of Ethnic Traditions Foundation”, viết tắt là V.I.E.T để chúng
ta không ngừng phát triển, phục vụ, cống hiến và tiếp tục “sống trẻ”.
Giúp Tăng Trưởng và
Duy Trì Sức Khỏe:
Trong đời sống, mọi
người đều biết rõ những điều quan trọng như: “ăn ngủ điều độ, giải trí lành mạnh, và tập luyện thường xuyên”.
Về ăn ngủ điều độ, tôi
khuyên quí vị nên ăn uống cẩn thận, đừng ăn kiêng quá mức mà mất sức khỏe.
Về giải trí lành mạnh:
“Get socialized!!!” Cộng đồng của chúng ta có những sinh hoạt tập thể, ca hát,
chơi nhạc cụ, hội họp, tranh luận lành mạnh, giúp làm chậm lại sự giảm trí nhớ
của tuổi già (senile dementia). “Cà phê trị liệu” cũng có kết quả tốt. Ngoài
ra, có những phương cách hữu hiệu tích cực khác nữa là đọc sách để luôn giúp
cho não bộ làm việc; luyện tập về tâm linh, chẳng hạn như “Nói điều
thiện, Nghĩ điều thiện” nếu ta không có đủ điều kiện “làm việc
thiện”
Về tập luyện cho sức
khỏe thể chất cũng như tinh thần, Y học hiện nay khuyến cáo chúng ta nên tập
thể dụcnhẹ nhàng và chậm. Những cách tập nhẹ nhàng được đề nghị như Bơi
lội, đi bộ chậm, yoga, Taichi, Khí Công và Kegel Exercise. Tuy nhiên những cách
này chỉ tốt cho 1 phần trong toàn bộ sức khỏe con người trên ba phương diện:
“tinh thần, thể chất, và xã hội” theo như định nghĩa chữ “Sức Khỏe” của WHO.
Những môn tập vừa kể cũng có nhưng giới hạn về tuổi tác và tình trạng sức khỏe
của người muốn tập.
Chúng tôi muốn giới
thiệu đến quí vị môn tập Thể Dục Khí Công Hoàng
Hạc (TDKCHH), phương pháp
tập phối hợp Y Võ Nhạc, giản dị, thích hợp với mọi thể trạng, không phân biệt
tuổi tác, giới tính, đáp ứng được những điều kiện của tất cả những cách tập nêu
trên, và đạt được kết quả sức khỏe về tinh thần và thể chất theo định nghĩa của
WHO.
Thể Dục Khí Công Hoàng
Hạc tập một cách tự nhiên, nhẹ nhàng,
khoan thai. Kết quả mang đến cho khí lực dồi dào, thể chất dẻo dai, tinh thần
sảng khoái.
Kết Luận:
ến tuổi gọi là Cao
Niên, mọi hệ thống, chức năng đều suy giảm, đặc biệt là hệ thống miễn nhiễm,
sức đề kháng yếu đi, trí nhớ kém đi, không tránh khỏi những điều mà người lớn
tuổi thường mắc phải. Do đó, có vài điều chúng ta cần biết:
•
Nên theo lời khuyên
của bác sĩ: uống thuốc đều đặn
•
Nên đi đứng chậm. Đặc
biệt là khi thức giấc, ngồi dậy, đứng dậy từ từ
•
Nên tập thể dục nhẹ
nhàng
•
Không nên quá mức
trong vấn đề “diet” vì cơ thể cần năng lượng từ thức ăn
•
Nên mặc áo ấm khi trời
lạnh.
•
Nên đọc sách hoặc
computer.
•
Nên “nghĩ và nói điều
thiện”.
•
Vui với cuộc sống hiện
tại.
Chúc quí vị một ngày vui!
(Kiến Trúc)