Pháp Tu Một Đời Giải Thoát

Lời dạy Đức Chí Tôn: “. . .Nếu biết ngộ kiếp, một đời tu đủ trở về cùng Thầy”.

Là môn đệ Cao Đài , sanh ra nhằm buổi Đạo mới khai, chúng ta hưởng đầy đủ ân huệ Thiêng Liêng của thời kỳ Đại Ân Xá. Tuy vậy chúng ta phải biết lo tu như thế nào để được về cùng Thầy, nghĩa là đoạt cơ giải thoát khỏi kiếp sanh tử luân hồi nội trong kiếp sanh nầy mới là điều quý nhứt, bởi vì nếu còn luân hồi lại nữa biết kiếp tới có còn được may duyên gặp Đạo hay không? Mà nếu không gặp Đạo để tu hành thì lại gây ra nhiều nghiệp chướng tội tình và phải đọa trầm luân đời đời kiếp kiếp , mà bị đọa có nghĩa là phải chịu khổ não muôn vàn , nghĩ nên quá khiếp sợ.

Khi Đức Thượng Sanh vừa qui thiên , Ngài về cơ và có dạy:

“Bần Ðạo lấy làm vui sướng được thoát nơi trần lụy. Cái kiếp phù sanh của con người chỉ có giải thoát được là quí hơn hết. . .”

Ngài là bậc Chơn Tiên giáng thế, khi làm xong sứ mạng trở về bái mạng Ngọc Hư Cung là điều dễ hiểu,  còn chúng ta là kẻ phàm phu phải lo tu như thế nào để được giải thoát, chớ nếu chúng ta cứ tu tà tà, tu hưỡn đải, trong chớp mắt đã thấy gần mãn kiếp rồi mà con đường giải thoát vẫn còn mờ mịt thì trông chi về đến cảnh an nhàn tự tại khi nhắm mắt xuôi tay. Các Đấng dầu muốn đưa tay cứu độ , nhưng ta phải tỏ ra rằng cả kiếp sanh ta có cố gắng lo tu, nếu không các Đấng cũng không cách gì bồng ẳm ta lên được.

Theo Thánh giáo Đức Chí Tôn dạy muốn trở về cùng Thầy tức về đến Bạch Ngọc Kinh, chúng ta phải đi qua các thế giới và các từng trời như sau:

“Các con đã sanh ra tại thế nầy, ở tại thế nầy, chịu khổ não tại thế nầy, rồi chết cũng tại thế nầy. Thầy hỏi: Các con chết rồi các con ra thể nào?

Các con đi đâu?

Chẳng một đứa hiểu đặng cơ mầu nhiệm ấy. Thầy dạy: Cả kiếp luân hồi thay đổi từ trong nơi vật -chất mà ra thảo mộc, từ thảo mộc đến thú-cầm, loài người phải chịu chuyển kiếp ngàn ngàn, muôn muôn lần, mới đến Ðịa-vị nhơn-phẩm. Nhơn phẩm trên thế nầy lại còn chia ra phẩm giá mỗi hạng. Ðứng bậc Ðế-Vương nơi trái địa-cầu nầy, chưa đặng vào bực chót của Ðịa-cầu 67. Trong Ðịa-cầu 67, nhơn loại cũng phân ra đẳng cấp dường ấy. Cái quý trọng cuả mỗi địa-cầu càng tăng thêm hoài, cho tới Ðệ-nhứt-cầu, Tam-Thiên-Thế-Giái; qua khỏi Tam-Thiên-Thế-Giái mới đến Tứ-Ðại-Bộ-Châu, qua Tứ-Ðại-Bộ-Châu mới vào đặng Tam-Thập-Lục-Thiên; vào Tam-Thập-Lục-Thiên rồi phải chuyển kiếp tu-hành nữa, mới đặng lên đến Bạch-Ngọc-Kinh, là nơi Ðạo Phật gọi là Niết-Bàn đó vậy”. . .

“Vậy Thầy lại dặn các con: nếu kẻ không tu, làm đủ phận người, công-bình, chánh-trực, khi hồn xuất ra khỏi xác thì cứ theo đẳng cấp gần trên mà luân hồi lại nữa thì biết chừng nào đặng hội-hiệp cùng Thầy? Nên Thầy cho một quyền rộng rãi cho cả nhơn-loại Càn-Khôn Thế- Giái, nếu biết ngộ kiếp một đời tu, đủ trở về cùng Thầy đặng; mà... hại thay!... mắt Thầy chưa đặng hữu hạnh hoan lạc, thấy đặng kẻ ấy”. (TNHT, trg 61)

Đọc qua đoạn Thánh giáo trên, chúng ta thấy con đường về cùng Thầy còn dài dằng dặc, tuy nhiên ở đoạn cuối Đức Chí Tôn có hé mở ra cho chúng ta một tia hy vọng qua câu:

“. . . Thầy cho một quyền rộng rãi cho cả nhơn-loại Càn-Khôn Thế- Giái, nếu biết ngộ kiếp một đời tu, đủ trở về cùng Thầy đặng. . .”

Như vậy, Thầy cho biết có những con đường tắt mà chúng ta có thể về cùng Thầy trong nội một đời tu mà thôi. Những con đường đó là đường nào ?

-Phải chăng đó là con đường lập công quả: Đức Chí Tôn từng dạy rằng: “Người ở dưới thế nầy, muốn giàu có phải kiếm phương thế mà làm ra của. Ấy là về phần xác thịt. Còn Thần, Thánh, Tiên, Phật muốn cho đắc đạo phải có công quả. (TNHT, 5 Juillet 1926)

Lập công quả là để ta trả những món nợ tiền khiên mà bao kiếp sanh còn chồng chất, đây là điều kiện cần nhưng chưa phải đủ để giải thoát trong một kiếp sanh. Công quả là để làm bậc phẩm trổi hơn lên mà thôi chớ chưa biết bao giờ mới đủ để giải thoát. Trừ phi những bậc đại căn tạo được công nghiệp phi thường, còn hạng phàm phu như đa số chúng ta,  một kiếp sanh lo lập âm chất thật nhiều nhưng chưa chắc sẽ được giải thoát. . . Chưa kể nếu chúng ta lập công quả với cái tâm nguyện là để được hưởng phước giàu sang danh vọng trong kiếp tới thì lại càng bị ràng buộc trong luân hồi sanh tử .

-Phải chăng đó là con đường tịnh luyện để sớm đoạt cơ giải thoát ? Điều nầy lại càng xa vời hơn nữa như lời Thánh giáo Đức Chí Tôn: Trong các con có nhiều đứa lầm tưởng hễ vào Đạo thì phải phế hết nhơn sự, nên chúng nó ngày đêm mơ tưởng có một điều rất thấp thỏi là vào một chỗ u nhàn mà ẩn thân luyện Đạo. Thầy nói cho các con biết: nếu công quả chưa đủ, nhân sự chưa xong, thì không thế nào các con luyện thành đặng đâu mà mong. (TNHT,trg 81). Vả lại, ngày nay việc tịnh luyện chưa có chơn sư dắt dẫn, ngoại trừ khi Đức Hộ Pháp còn sanh tiền. . .

Việc đi tìm câu giải đáp cho vấn đề đặt ra thật không phải dễ, tuy nhiên cũng may mắn thay trên dòng suy tư chúng ta bắt gặp những lời giảng giải thật khúc chiết của Ngài Bảo Đạo Hồ Tấn Khoa qua bài thuyết Đạo vơi tựa đề: CON NGƯỜI CÓ THỂ TRẢ HẾT NỢ
TRONG MỘT KIẾP SỐNG HAY KHÔNG ?
Ở cuối bài thuyết đạo, câu trả lời của Ngài Bảo Đạo là: Có thể. Mà hễ ta trả hết nợ thì ta sẽ được giải thoát trong một kiếp sanh. . ..

Kế đó chúng ta cũng đọc được lời hứa của Đức Chí Tôn khi Đức Hộ Pháp hỏi về cơ tận độ:

“Dầu cho có kẻ nào phạm tội dẫy đầy mặt đất mà khi hấp-hối rồi chỉ kêu lấy danh ta thì cũng đặng siêu-thoát”.

Nhưng trước hết chúng ta hãy tìm hiểu về bài thuyết đạo của Ngài Bảo Đạo:

1.Con người có thể trả hết nợ trong một kiếp sống hay không ?

Trước tiên Ngài Bảo Đạo chứng minh con người mang nhiều món nợ dẫy đầy trên con đường tiến hoá từ vật chất hồn cho đến bực nhơn phẩm:

Chúng ta đã có dịp nói qua rồi về con đường tiến-hóa của Vạn-Linh hay là con đường Thiêng-Liêng-Hằng-Sống tức là con đường tiến-hóa từ vật-chất đến thảo-mộc, thú cầm mới lên phẩm người. Giai đoạn đó phải đòi hỏi cả muôn năm, muôn kiếp trong mỗi phẩm.

Vì vậy, từ buổi mới được kết tạo nơi chốn bào thai thì mọi đơn-vị nhơn-loại đã phải chịu ảnh-hưởng của nợ tiền-khiên là công chuộc quả của các bậc tiến-hóa trước từ kim-thạch đổ lên đã phải chịu trong vòng vận-chuyển của Bát-Hồn.

Hiểu vậy thì mỗi chúng ta khi mới tượng-hình trong bào-thai đã có nợ rất nhiều rồi trong tiền-kiếp trên bước đường tiến-hóa từ khi còn là kim-thạch đổ lên. Như vậy thì mỗi kiếp sanh đã sẵn nặng nợ của Tạo-vật dẫy-đầy, mặc dầu là chưa làm chi nên tội.

Rồi một khi lọt lòng mẹ bước ra chào đời thì lại còn thêm nặng nợ xã-hội nhơn-quần, bắt đầu là nợ sanh thành dưỡng-dục, mớm cơm vú sữa, rồi đến nợ áo cơm ăn học, nợ tình-cảm trong gia-đình, cha mẹ, anh em, thân tộc rồi đến bạn tác. Một khi đến lúc trưởng-thành thì lại thêm quả-nghiệp tạo dựng gia-đình nên chồng nên vợ, nên nhà nên cửa, nhứt nhứt mỗi nhu-cầu trong sự sanh sống hằng ngày đều là cơ hội để vay thêm nợ của xã-hội. Đó là định-nghiệp của một kiếp. Lấy lý mà suy-nghiệm, thì cả một kiếp sanh, mỗi đơn-vị con người đã phải chịu ơn tấn-hóa của hóa-nhơn, rồi lại chịu ơn cấp-dưỡng của đồng loại. Hai cái ơn ấy muốn cả đơn-vị chơn-hồn con người phải đi theo đà sanh-hóa, luân-chuyển mãi thôi ! Trong cơ vay trả biết bao giờ mới hết?. . .”

Khi chúng ta lớn lên, chỉ nội cái ăn cái mặc, chúng ta cũng gánh bao nhiêu là món nợ chồng chất:

“Bát cơm của chúng ta ăn hằng ngày để nuôi sống thân phàm nầy là do ơn của bao nhiêu người đã phải khổ cực, dầm sương dãi nắng để tạo ra, từ người nông phu luôn cả con súc vật đã cực khổ cày bừa, dọn dẹp thửa đất cho sạch-sẽ để rồi gieo lúa lên mạ. Khi cây mạ đúng sức rồi, phải nhờ bao nhiêu công để cấy. Khi cấy xong rồi còn phải chăm nom, săn-sóc, giữ cỏ, giữ nước, giữ sâu bọ, chim chóc, đến lúc chín còn phải cắt, gặt, đập, giê xay, giã .v.v...Ra hột gạo rồi còn phải vo nấu cho ra hột cơm mình ăn. Cái áo chúng ta mặc , cũng do bao nhiêu công nợ mà chúng ta phải chịu, từ kéo ra sợi chỉ, dệt lại thành bức cắt ra rồi may ráp lại cho ra kiểu vỡ một cái áo để ta mặc. Đó là chưa kể những nợ mà ta phải chịu về những người tạo ra máy móc, hoặc tạo ra cái kéo, cây kim .v.v...

Đấy là kể sơ hai thí-dụ cụ thể để nhận-thức những món nợ vô cùng lớn lao và đầy-dẫy mà ta phải lo trả”.

Những món nợ vĩ đại nầy , ta phải lấy công mà trả công chớ không dùng tiền mà trả được:

“Chúng ta cũng nên nhớ là nghiệp-quả ở trong sự cấp-dưỡng của đồng loại về cái ăn, đồ mặc, chỗ ở, thì chẳng phải lấy của mà trừ công cho đặng, mà là phải lấy thiện-ý của chơn-chánh để phục-sự, hầu cứu an nhơn khổ, tức là ta phải lấy công mà trả công chớ không phải thế ỷ có tiền rồi lấy tiền làm trọng và xem công quả của đồng-loại là rẻ. Đó là Đạo vậy”.

Lấy lý mà suy, món nợ vĩ đại này nếu ta trả công lại một cách sòng phẳng thì khó mà đền đáp hết được, nhưng quyền Thiêng Liêng cho ta trả hết nợ nếu ta đem hết tâm thành hy-sinh trọn vẹn mãnh thân phàm để phụng sự cho nhơn-loại, hay cho những kẻ chung quanh mình mà không có một điểm gì nhỏ mọn để nghĩ đến mình :

“Nếu lấy theo lý đó mà suy ra, thì mối nợ xã-hội này chúng ta trả biết bao giờ mới hết, và như thế thì phải chịu luân-chuyển cùng đà sanh-hóa mãi hay sao?

Không đâu! Nếu chúng ta biết luật tiến-hóa của vạn-linh đã định là hy-sinh về kiếp sống của mọi xác-thân nơi mặt thế này. Mọi xác-thân nơi mặt thế nầy phải là vật hy-sinh trên đường thế sự.

Thêm nữa trong cửa Đạo, chúng ta vẫn biết rằng Đức Chí-Tôn và các Đấng Thiêng-Liêng chú-trọng nơi tâm thành, và chỉ lấy Tâm là quí. Vì thế, nếu chúng ta biết, thì cả món nợ hay nói cách khác, cả công ơn của xã-hội chúng ta có thể trả trong một kiếp mà quyền Thiêng-Liêng Vô-Hình vẫn chấp-nhận cho ta, nếu ta đem hết tâm thành hy-sinh trọn vẹn mãnh thân phàm để phục-vụ cho nhơn-loại, hay cho những kẻ chung quanh mình mà không có một điểm gì nhỏ mọn để nghĩ đến mình, tức là phải sống một đời hoàn-toàn vị tha không còn một điểm gì nhỏ nhít vị-kỷ, mặc dầu kết quả về mặt hữu-hình không xứng đáng là bao, nhưng tấm lòng chơn-thành quyết chí trọn vẹn hy-sinh đã bao trùm hết, và nếu quả quyết làm đúng theo vậy, thì quyền Thiêng-Liêng sẽ cho TRỪ HẾT NỢ TRONG MỘT KIẾP !

Và để chứng minh cho lời giải thích nầy, Ngài Bảo Đạo nêu lên sự tích Ông Phật Dám đã hy sinh trọn vẹn, không màng đến cả mạng sống mình để phụng sự cho Đạo pháp:

“Từ xưa đến nay ta chỉ thấy có một tấm gương để ấn chứng lẽ này trong cửa Phật Giáo mà ít người đuợc hiểu rõ ý nghĩa. Đó là vị Phật thường gọi à Ông Dám, được các chùa Phật để thờ nơi Hậu-Đường.

Sự tích sơ lược như sau: Ông là một người dốt nát thật-thà, xin ở chùa làm công quả, lãnh phận sự nấu nước cúng Phật, và cho mọi người dùng. Mặc dầu hết sức tận tụy với nhiệm vụ, nhưng những người ở trong chùa, nhất là mấy chú Tiểu ngỗ nghịch rầy la, mắng nhiếc hiếp đáp đủ điều mà ông vẫn vui vẻ âm thầm quên mình tận tụy với nhiệm vụ, không một lời oán trách hay than-thở.

Thường bữa đến tối là Ông lo vùi một cục than lửa, để khuya Ông thổi lên nhen-nhúm có lửa nấu nước cho Ông Sư công-phu cúng Phật, vì thưở ấy không có diêm quẹt.

Một hôm có kẻ ác tâm lén tưới nước tắt mấy cục than lửa. Đến khuya Ông thức dậy dụm lửa, thì khổ thay không biết lấy lửa đâu mà nhen nhúm. Buổi ấy là nhà ở thưa thớt. Muốn đến xóm trên xin lửa phải qua một khu rừng có đầy ác thú, nhưng vì nhiệm vụ Ông không kể thân sống, quyết đi xin cho có lửa đem về nấu nước cúng Phật cho kịp giờ, nên một mình trong đêm tối Ông băng mình đi đại.

Khi đến giữa rừng, gặp một con cọp đòi ăn thịt Ông, thì Ông van lạy để Ông đi xin đặng lửa về nấu nước cúng Phật cho kịp giờ, rồi Ông sẽ trở ra nạp thịt. Cọp bằng lòng, nên Ông đi xin đặng chút lửa than về nhen nhúm lên nấu nước cho kịp giờ cho Ông Sư cúng Phật .

Khi ấy, Ông quyết giữ lời hứa, nên lén một mình trở ra rừng nạp thịt cho cọp. Hại thay, Ông lại gặp cọp già nói với Ông là răng cọp không còn cứng bén, mà xương Ông lại cứng, ăn không nổi, nên yêu cầu Ông leo lên cây cao buông tay rớt xuống cho dập xương thịt, cọp mới ăn đặng. Ông cũng bằng lòng hy-sinh trọn vẹn leo lên ngọn cây thiệt cao buông tay cho rơi xuống đất.

Theo tích kể lại, lúc Ông buông tay rớt xuống, thì Ông được Phật rướt luôn và cọp già kia cũng là do Phật hóa hình để thử lòng Ông. Chuyện kể nghe có vẽ thần thoại, nhưng ý nghĩa là nêu lên một gương hy sinh trọn vẹn với một tinh thần vị tha bất vụ lợi, thì được quyền thiêng liêng chứng cho quả Phật-vị, tức là Ông đã trả hết nợ trong một kiếp. Người ta đặt tên Ông là Ông Dám, vì Ông dám làm một việc mà chưa có ai dám làm.

Trong sự hy sinh thì quyền Thiêng-Liêng chỉ chứng cho TÂM THÀNH CHƠN CHÁNH không vụ danh, mà cũng không vụ-lợi. Nếu sự hy-sinh đó càng ầm thầm kín đáo chừng nào thì giá-trị tinh thần lại càng cao chừng ấy, chớ quyền thiêng liêng không kể sự hy-sinh ấy kết quả to lớn hay nhỏ mọn.

Nếu sự hy-sinh có tính cách rầm rộ, quảng cáo, kích động quần chúng với mục đích vì hữu danh thì sự hy-sinh ấy chẳng có giá trị gì hết với quyền Thiêng-Liêng .

Vậy ai muốn hết nợ, hay đắc quả trong một kiếp thì chỉ có phải dám hy sinh trọn vẹn quên mình âm thầm phục vụ cho mọi người là đặng”.

Chúng ta cám ơn Ngài Bảo Đạo đã vạch cho nhơn sanh một con đường tắt để có thể trở về cùng Thầy trong một kiếp sanh. Chúng ta có thể kể thêm những tấm gương dám hy sinh trọn vẹn cuộc đời phụng sự nhơn loại như Đức Mẹ Têrêsa ở Ấn Độ suốt đời lo cho nguời nghèo khổ. Một truyện khác về một vị linh mục tình nguyện vào phục vụ trong một trại cùi, sau cùng ông cũng bị bịnh cùi mà qua đời. Ta cũng có thể kể về những vị Thánh Tử Đạo, dám hy sinh mạng sống chớ không hề chối Đạo. . .

2. Pháp Môn Niệm Danh Thầy.

Lời Hứa của Đức Chí Tôn.

Trong quyển Lời Phê Đức Hộ Pháp, có đoạn:

“Đức Chí-Tôn là Đại-Từ-Phụ, khi đến độ Bần-Đạo. Bần-Đạo có hỏi về phương tận-độ các vong linh nhân-loại thì có nói quả quyết như vầy: Dầu cho có kẻ nào phạm tội dẫy đầy mặt đất mà khi hấp-hối rồi chỉ kêu lấy danh ta thì cũng đặng siêu-thoát”.

Chúng ta cần suy ngẫm lời dạy trên của Đại Từ Phụ. Các chữ “phạm tội dẫy đầy mặt đất” có nghĩa là người đó phạm những tội lỗi thật nặng và thật nhiều mà theo nhà Phật là phải bị đọa vào ba đường ác là địa ngục, ngạ quỷ và súc sanh hay vào địa ngục vô gián đời đời kiếp kiếp. . .Còn nói theo đạo Cao Đài phải bị những hình phạt như tận đọa tam đồ bất năng thoát tục hay chơn thần bị Ngũ lôi tru diệt. . . Đó là những hình phạt thật khủng khiếp, nhưng theo lời dạy của Đức Chí Tôn thì những người đó khi đến giờ phút lâm chung, hấp hối mà kêu được danh Thầy, có nghĩa là niệm được câu Nam Mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát thì Thầy sẽ cứu độ về cõi an nhàn siêu thoát. . .

Mới nghe qua chúng ta tưởng điều nầy đâu có gì khó, nhưng thực tế những người gây nhiều nghiệp chướng trong kiếp sanh khi đến lúc ra đi phải bị hôn mê, đau đớn qua nhiều ngày tháng rồi mới chết. . .Như thế những người nầy không thế gì còn tĩnh táo để niệm được danh Thầy lúc lâm chung.

Đây là lời dạy vô cùng quan trọng của Đức Chí Tôn, có liên quan đến cơ Tận độ trong Đạo Cao Đài, vì vậy trong quyển Con Đường Thiêng Liêng Hằng Sống, Đức Hộ Pháp thuyết đêm 12 tháng 2 năm Kỷ Sửu (1949) có đoạn giảng về ý nghĩa của việc niệm danh Thầy như sau:

“Hỏi thử tội tình của chúng ta  đã làm trong kiếp sanh, Đức Chí Tôn để trong phương pháp nói rằng: tội tình các con đầy dẫy nơi mặt địa cầu nầy mà đến giờ chót các con biết kêu danh Thầy thì Thầy đến cứu, Thầy đem bí pháp giải thoát để trong tay các con đặng các con đoạt chơn pháp giải thoát đó vậy. Kêu danh Thầy là: Nam Mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát.

Chúng ta  đã ngó thấy Bần Đạo đã thuyết minh rằng: khi ngươn linh của chúng ta đã hiện tượng của nó, thì nó đồng tánh với càn khôn vũ trụ, đồng tánh với Chí Linh là đoạt Đạo.

Càn khôn vũ trụ là nơi sản xuất Đấng ấy mà Đấng ấy đồng tánh với nhau tức nhiên Đấng ấy có quyền tự giải thoát cho mình, vì cớ cho nên kêu danh Đức Chí Tôn thì đoạt cơ giải thoát dầu tội tình bao nhiêu chúng ta  đã tạo thành nơi mặt địa cầu nầy, dầu có đầy dẫy đi nữa mà giờ chót chúng ta  biết kêu danh Đức Chí Tôn, tức nhiên biết kêu ngươn linh của chúng ta, tức nhiên chúng ta  chối cái quyền làm tòa buổi chung qui của chúng ta. Hễ ta chối cái quyền làm tòa thì còn ai xử ta đâu.

Đấng Chí Linh duy chủ mà để quả kiếp trong tay Đấng Chí Linh thì còn ai xử ta đâu, cơ quan giải thoát đoạt pháp là vậy đó”.

Lời Nguyện của Đức Phật A Di Đà.

Từ lời dạy của Đức Chí Tôn, chúng ta cũng liên tưởng đến lời nguyện thứ 18 của Đức Phật A Di Đà trong kinh Vô Lượng Thọ:

Giả sử khi tôi thành Phật, chúng sanh ở mười phương chí tâm tin ưa muốn sanh về nước tôi nhẫn đến mười niệm, nếu không được sanh thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác, trừ kẻ tạo tội ngũ nghịch cùng hủy báng chánh Pháp.”

Lời nguyện nầy có ý nghĩa là:  những người muốn sanh về nước của Phật A Di Đà là cõi Cực Lạc Thế Giới, thì khi lâm chung chỉ cần niệm được 10 niệm danh hiệu: Nam Mô A Di Đà Phật thì sẽ được về nước Phật, trừ kẻ phạm tội ngũ nghịch cùng hủy báng chánh pháp.

Ngoài ra trong kinh A Di Đà , Đức Phật Thích Ca cũng có dạy:  Nếu người nào niệm Phật một đến bảy ngày nhất tâm bất loạn, lúc lâm chung sẽ được Phật A Di Đà và thánh chúng tiếp độ về cõi Tây Phương Cực Lạc.

So ra lời hứa của Đức Chí Tôn còn dễ dàng hơn của Phật A Di Đà vì Đức Chí Tôn không kể bất cứ tội gì cũng đều được vãng sanh và chỉ cần thành tâm niệm danh Thầy một niệm cũng đủ chớ không cần đến mười niệm. . .

Căn Bản của Pháp môn Tịnh Độ.

Nhìn vào lời nguyện của Đức Phật A Di Dà hay lời hứa của Đức Chí Tôn tuy đơn giản nhưng rất khó thực hiện, vì khi lâm chung ít có người nào còn bình tĩnh để niệm được nếu hàng ngày không có sự tu tập. Vì vậy nên Đức Phật Thích Ca mới giảng giải các phương pháp niệm Phật hằng ngày để khi lâm chung được vãng sanh, các phương pháp nầy tựu trung qua các bộ kinh căn bản : Kinh Vô Lượng Thọ, Kinh A Di Đà, Kinh Quán Vô Lượng Thọ. Về sau người ta lấy các kinh nầy làm căn bản để tu tập cho pháp môn gọi là Tịnh Độ Tông .Theo pháp môn nầy căn bản nhứt khi niệm Phật gồm 3 món tư lương là Tín, Nguyện và Hạnh.

Tín là tin mình có Phật tánh, mình có khả năng thành Phật. Tin sâu tiếng niệm Phật là hạt giống, là cái nhân để thành Phật. Tin Phật A Di Đà sẽ độ dẫn về cõi Tây phương Cực Lạc.

Nguyện là hàng ngày phát nguyện thiết tha tận đáy lòng cầu sanh về Tịnh Độ và chán cảnh ta bà nầy.

Hạnh là chuyên cần trì niệm hằng ngày danh hiệu A Di Đà Phật không gián đoạn.

Theo ngài Ngẫu Ich đại sư : “Được vãng sanh hay chăng toàn là do có tín nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Tóm tắt qua câu tin sâu, nguyện thiết, hành chuyên. Hoặc niệm Phật cần phải : không hoài nghi, không xen tạp, không gián đoạn.

Và còn phải giữ các hạnh nguyện như:

Hiếu dưỡng phụ mẫu : nuôi dưỡng, kính trọng, làm cho cha mẹ vui lòng.

Phụng sự sư trưởng: phụng sự bậc thầy dạy đạo. Còn nói theo Đạo Cao Đài tuân theo lời dạy của Hội Thánh.

Từ tâm bất sát: ăn chay trường, không sát hại sanh vật dầu là con vật nhỏ nhít như kiến. .

Hành thập thiện nghiệp: gồm:

              Không sát sanh

              Không trộm cắp

              Không tà dâm

              Không nói dối

              Không nói hai lời

              Không nói ác

Không nói thêu dệt

Không tham lam

Không sân hận

Không si mê (nhận thức không đúng chơn lý)

Phát bồ đề tâm: nguyện tu thành Phật để độ chúng sanh.

. . . . . . . . . . . . . . .

          Nghiệp chướng sanh ra từ thân, khẩu, ý.

          Chúng ta biết rằng sỡ dĩ con người mắc vào vòng sanh tử luân hồi là do ba nghiệp: Thân nghiệp, khẩu nghiệp và ý nghiệp. Các giới luật như : Ngũ giới cấm, Tứ đại điều qui mà người môn đệ Cao Đài phải gìn giữ là để khỏi gây nên các ác nghiệp nầy. Tuy nhiên, thân nghiệp và khẩu nghiệp xem ra còn dễ giữ, riêng ý nghiệp thì khó mà giữ được vì mỗi phút giây có hàng trăm ý tưởng thiện ác, chạy qua trí não chúng ta. Các tư tưởng nầy đều tồn tại trong A Lại Da thức mà trở thành nghiệp ta phải trả sau nầy.

          Chúng ta suy ngẫm câu chuyện trong sách Phật như sau:

          Một hôm có một người tuổi cũng khá già rồi, ông đã chán cõi đời giả tạm, khổ đau muốn đến tịnh xá của Phật xin xuất gia tu hành. Nhằm lúc đó Đức Phật đi vắng, ông vào tịnh xá ra mắt các vị A La hán, đệ tử của Phật. Các vị nầy dùng huệ nhãn quán xét xem cụ già nầy có cơ duyên với Phật pháp không, bởi vì có câu Phật chỉ độ người hữu duyên với Phật mà thôi. Sau khi quán xét, các vị nầy thấy ông cụ cả mấy trăm kiếp không có làm được một việc gì hữu ích cho Phật pháp nên từ chối không nhận ông qui y. Ông cụ vô cùng buồn khổ bèn ra đứng ngoài cửa tịnh xá nét mặt âu sầu. Kịp đến khi Phật về gặp ông mới hỏi tự sự, ông trình bày đầu đuôi câu chuyện, Phật sau khi quán xét liền nhận lời cho ông xuất gia. Các vị đệ tử Phật sau đó mới thưa chuyện quán xét của mình với Phật thì Phật mới bảo với họ rằng: Các ông mới đạt A La Hán chỉ quán xét đến mấy trăm kiếp mà thôi, nhưng xa xưa hơn nữa có một kiếp ông già nầy làm một thợ săn. Một hôm vào rừng săn thú thì có một con cọp tấn công ông; trong lúc hoảng hốt ông trèo lên cây và có kêu lên:  Phật ơi cứu con. Nhờ tâm thành của ông lúc đó mà ngày nay cái quả chín rồi nên ta nhận ông. Và sau đó ông già tu cũng đắc thành quả vị. . .

Chúng ta thấy chỉ một niệm thiện nghĩ đến Phật phát sinh trong khoảnh khắc mà sau nhiều đời kiếp đã sinh ra quả lành to lớn đưa đến giải thoát, huống hồ khi ta niệm Phật ngày này qua ngày khác.

Muốn thực hành pháp môn niệm Phật hay pháp môn niệm danh Đức Thượng Đế, trước tiên ta phải tin tưởng nguyên tắc kể trên :  tạp niệm trong tâm ta vốn là hạt giống của sanh tử luân hồi.

Nguyên lý tiêu nghiệp chướng.

Nghiệp chướng vốn xuất phát từ thân, khẩu và ý , vậy muốn dứt sự sanh tử luân hồi ta phải làm thế nào để tiêu trừ nghiệp chướng cũ  và đừng gây thêm nghiệp mới nữa. Khi ta niệm danh Phật và trong tâm chỉ nghĩ đến Phật thì ta tạo được cái nhân sẽ thành Phật. Vậy khi ta niệm danh Chí Tôn và trong lòng tâm nguyện sẽ về cùng Thầy là ta đã tạo được cái nhân giải thoát.

Và chính khi ta niệm danh Phật hay niệm danh Thầy một cách thành khẩn, không xen tạp niệm nào khác thì cũng là lúc tiêu trừ được những nghiệp chướng, trọng tội trong quá khứ, giống như ta có một ly nước bẩn, bây giờ ta rót nước sạch vào ly, nước sẽ tràn ra ngoài và đến một lúc nào đó ly nước sẽ hoàn toàn sạch. Nguyên lý là ở chỗ đó.

Ấn Quang Đại Sư Gia Ngôn Lục có câu: “Chỉ chí thành niệm tự nhiên nghiệp chướng tiêu mà phước huệ thảy đều tăng trưởng”. . .(trang 36)

Đới Nghiệp Vãng Sanh.

Đới nghiệp vãng sanh có nghĩa là mang theo nghiệp mà vãng sanh. Những người tu tập theo Tịnh độ, có đủ tín, nguyện khi lâm chung niệm Phật được một đến mười niệm thì Phật A Di Đà đến rước về Tây phương Cực Lạc Thế Giới. Cõi nầy chia ra làm chín phẩm :
Thuợng phẩm Thượng sanh, Thượng phẩm Trung sanh, Thượng phẩm Hạ sanh.

Trung phẩm Thượng sanh, Trung phẩm Trung sanh, Trung phẩm Hạ sanh.

Hạ phẩm Thượng sanh, Hạ phẩm Trung sanh, Hạ phẩm Hạ sanh.

Tùy theo nghiệp lực của chúng sanh còn nhiều hay ít mà sanh vào phẩm nào. Về đến đây không có nghĩa là thành Phật hay Bồ Tát liền mà phải chuyển kiếp xuống trần để trả nghiệp và lập công thêm từ một đến mười hai kiếp , rồi mới đắc vị Phật là hoàn toàn giải thoát.

 Về đến Cực Lạc Thế Giới , theo như Đức Hộ Pháp thuyết giảng thì ta hưởng ở cõi này từ 1200 năm, hay 2400 năm,  hay 3600 năm, rồi đầu kiếp xuống trần lập công tiếp cho đến khi đắc thành quả vị.

Vế đến cõi nầy không còn cảnh khổ não mà chỉ hưởng khoái lạc, không phải lo ăn mặc ở, chỉ lo tu hành, nghe chư Phật, Bồ Tát thuyết pháp, do đó nghiệp quả cũng sẽ tiêu trừ bớt. Và đặc biệt về đến đây thì được bất thoái chuyển nghĩa là tăng tiến lên cao hơn mà thôi chớ không bị đọa trần theo dòng luân hồi sanh tử nữa. Cho nên về đến Cực Lạc Thế Giới coi như ta đã được giải thoát. . .Cho nên, trong Đạo Cao Đài chúng ta cũng cầu nguyện cho người qui vị được siêu thăng Tịnh độ là vậy. . .

Trong Ấn Quang Đại Sư Gia Ngôn Lục (trg 7) có đoạn nói về đới nghiệp vãng sanh như sau:

“Nên biết rằng, chúng ta từ vô thỉ đến nay đã tạo ác nghiệp vô lượng vô biên. Kinh Hoa Nghiêm dạy: Giả sử ác nghiệp có thể tướng thì mười phương hư không chẳng thể chứa đựng nổi. Lẽ đâu tu trì lơ mơ, hời hợt lại tiêu nổi được nghiệp ư ? Bởi vậy Thích Ca, Di Đà giáo chủ hai cõi đau đáu nghĩ đến chúng sanh không sức đoạn hoặc, riêng mở ra một pháp môn nương vào từ lực của Phật để đới nghiệp vãng sanh. Lòng hoằng từ đại bi ấy dù Trời Đất, cha mẹ cũng chẳng thể bằng được một phần hằng hà sa”. . .

“Công đức, lợi ích của pháp môn đây vượt trổi hơn các giáo pháp khác trong cả một đời giáo hóa của Đức Phật. Bởi lẽ các giáo pháp khác toàn dạy dùng tự lực để thoát ly sanh tử. Kẻ chưa đoạn hoặc nương vào từ lực của Phật liền có thể đới nghiệp vãng sanh. Kẻ đã đoạn hoặc nếu nương theo từ lực của Phật sẽ chóng chứng được phẩm vị cao”. (trg 8)

Phương Pháp Niệm Phật theo Tịnh Tông.

Theo Ấn Quang Đại Sư Gia Ngôn Lục, cách niệm Phật như sau:

Về chánh hạnh niệm Phật nên tùy sức mỗi người mà lập, chẳng thể chấp chặt một bề. Nếu thân mình không bận việc, cố nhiên nên từ sáng đến tối, từ đêm đến sáng, đi, đứng, nằm, ngồi, nói năng, im lặng, động, tịnh, ăn cơm, mặc áo, đại tiện, tiểu tiện, trong hết thảy thời, hết thảy chỗ, giữ sao cho một câu hồng danh thánh hiệu chẳng rời tâm, miệng! Nếu rửa ráy, súc miệng thanh tịnh, áo mũ chỉnh tề và nơi chốn thanh tịnh thì niệm Phật ra tiếng hoặc niệm thầm đều được cả.

Còn lúc ngủ nghỉ, lúc thân hình hở hang, tắm gội, đại tiểu tiện, cũng như khi đến chỗ dơ bẩn chẳng sạch, chỉ nên thầm niệm, đừng niệm ra tiếng. Thầm niệm cũng có cùng một công đức [với niệm ra tiếng]. Niệm ra tiếng chẳng cung kính. Chớ bảo ở những chỗ ấy chẳng thể niệm Phật. Phải biết là ở những nơi ấy, chẳng được niệm ra tiếng mà thôi. Hơn nữa, lúc nằm ngủ nếu niệm ra tiếng chẳng những không cung kính lại còn bị tổn khí. Chẳng thể không biết điều này!” (trg 26)

Thể thức tụng kinh và niệm như sau:

Dù là niệm Phật lâu ngày chẳng hề gián đoạn, nhưng mỗi sáng chiều nên hướng về Phật lễ bái. Lễ xong, trước hết, niệm một biến kinh A Di Đà, ba biến chú Vãng Sanh; đoạn niệm tám câu kệ tán Phật: “A Di Đà Phật thân kim sắc...” Niệm kệ xong, niệm “nam mô Tây Phương Cực Lạc thế giới đại từ đại bi A Di Đà Phật”. Tiếp đó, niệm sáu chữ “nam mô A Di Đà Phật” một ngàn lần hoặc năm trăm lần, nên vừa nhiễu Phật vừa niệm. Nếu chẳng tiện nhiễu Phật thì quỳ, hoặc ngồi, hoặc đứng niệm đều được cả.(trg 26)

Đối với người công việc bề bộn, không có thời giờ thì niệm 2 khoá sang và tối :

Nếu như công việc bộn bề, không lúc rảnh rỗi, thì sáng tối sau khi rửa ráy, súc miệng xong, nếu có tượng Phật thì nên lễ Phật ba lạy, đứng ngay, niệm nam mô A Di Đà Phật. Hết một hơi là một niệm. Niệm đến mười hơi liền niệm Tiểu Tịnh Độ Văn, hoặc chỉ niệm bốn câu kệ “nguyện sanh Tây Phương Tịnh Độ trung...”. Niệm xong, lễ Phật ba lạy, lui ra.

Niệm Phật phải nhiếp tâm, chớ không thể suy nghĩ lung tung:

Nếu niệm Phật tâm khó quy nhất thì nên nhiếp tâm niệm khẩn thiết, tâm sẽ tự có thể quy nhất. Tâm chẳng chí thành, muốn nhiếp tâm cũng chẳng được. Nếu đã chí thành, nhưng vẫn chưa thuần nhất thì hãy nên lắng tai nghe kỹ; chẳng luận là niệm ra tiếng hay niệm thầm, mỗi niệm đều phải từ tâm khởi, tiếng từ miệng thoát ra, âm thanh lọt vào tai (khi niệm thầm, miệng chẳng động, nhưng trong ấy vẫn có thanh tướng). Tâm và miệng niệm được rõ ràng, tách bạch; tai nghe cho rõ ràng, phân minh. Nhiếp tâm như thế vọng niệm sẽ tự dứt.

Nếu tâm vẫn còn vọng động thì nên áp dụng phương pháp Thập Niệm Ký Số như sau:

Pháp Thập Niệm Ký Số : Trong khi niệm Phật, từ một câu đến mười câu phải niệm cho phân minh, nhớ số phân minh. Niệm hết mười câu lại niệm từ một câu đến mười câu, chẳng được niệm hai mươi, ba mươi câu. Niệm câu nào nhớ câu nấy, chẳng được lần chuỗi, chỉ dựa vào tâm để nhớ. Nếu thấy khó nhớ cả mười câu thì chia ra làm hai hơi: từ câu thứ nhất đến câu thứ năm và từ câu thứ sáu đến câu thứ mười. Nếu vẫn chưa được, hãy niệm thành ba hơi: từ câu thứ nhất đến câu thứ ba, từ câu thứ tư đến câu thứ sáu, và từ câu thứ bảy đến câu thứ mười. Niệm cho rõ ràng, nhớ cho phân minh, nghe cho rành rẽ, vọng niệm không chỗ chen chân, lâu ngày sẽ tự được Nhất Tâm Bất Loạn.

Phương Pháp Trì Niệm Danh Thầy theo Tịnh Độ Tông.

Về kỹ thuật niệm giống y như cách niệm Phật: Đi đứng nằm ngồi đều niệm, lớn tiếng hoặc niệm thầm hay nhép môi đều được. . .và tùy theo hoàn cảnh . Niệm từ sáng đến tối, nghỉ ngơi hay làm việc, bất cứ lúc nào có thể.

Về Thể thức niệm:

-Nếu nhà có Thiên bàn, mỗi ngày nên cúng Tứ thời hay một, hai, ba thời cũng được tùy hoàn cảnh. Đây là Bí pháp giải thoát theo lời dạy của Đức Hộ Pháp. Phần cầu nguyện nên nguyện câu: Nguyện mãn báu thân nầy con sẽ về cùng Thầy, hoặc về cõi Tây Phương Cực Lạc Thế Giới.

-Tụng Tứ thời xong tụng tiếp Di Lạc Chơn Kinh và Kinh Cứu Khổ, đây là kinh Tận độ có tác dụng tiêu trừ nghiệp chướng.

-Trì niệm danh Thầy là : Nam Mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát suốt ngày lúc nào có thể.

-Phương pháp làm cho nhứt tâm cũng giống như cách niệm Phật: khi niệm danh Thầy, tai lắng nghe tiếng niệm , hoặc đếm số từ một đến mười, rồi trở lại một đến mười. . .

-Trong pháp môn niệm Phật có phần hồi hướng công đức về cõi Tây phương, nhưng chúng ta trong phần cúng tứ thời cầu nguyện cũng đủ rồi. Nếu không có Thiên bàn thì sau một hồi niệm thì thêm cầu nguyện về cùng Thầy hoặc về Tây Phương Cực Lạc khi mãn báu thân nầy.

-Khi làm công quả chớ nghĩ rằng mình làm để kiếp sau mình được hưởng giàu sang phú quí, mà làm vì lòng thương người hay vì lợi ích cho chúng sanh mà làm, tức là làm với tâm Bồ Tát đạo. . .

Phương Pháp Niệm Danh Thầy theo phái Vô Vi Huyền Bí Phật Pháp.

Trong quyển Thượng Đế Giảng Chơn Lý, Kim Thân Cha (là điển quang của Đức Thượng Đế) có giảng về phương pháp niệm danh Đức Thượng Đế (cũng tức là niệm danh Thầy) như sau:

-Ý nghĩa việc niệm danh Cha:

Con niệm danh Cha có ý nghĩa gì? Con niệm danh Cha tức là niệm chính danh của linh hồn con đó. Vì con chính thật là gì? Là một chiết hồn, một Tiểu Linh Quang của Thượng Đế xuống thế để đi học, để hiểu biết mọi bản chất của mình, rồi trở về ngôi vị cũ, khi linh quang con đã thật sự đủ sáng để hòa vào Đại Khối Linh Quang.Cho nên, khi con niệm danh Cha, tức danh thật của con thì chơn thần con hay linh hồn con cũng vậy, lúc ấy sẽ thức tỉnh. Con niệm danh Cha, tức là con niệm danh con, con đảnh lễ con, con kích động, nhắc nhở con bừng dậy, sinh động, nắm lại quyền Chủ Nhơn Ông điều khiển cái Tiểu Càn Khôn của con. Bấy lâu nay, con để con hôn trầm trong mê muội, ngụp lặn trong tăm tối, con chẳng biết làm chủ, chẳng biết điều hành chỉ huy cái Tiểu Vũ Trụ của con, khiến cho mọi trật tự bị đảo lộn, mọi tổ chức bị rối loạn, vì con quá yếu ớt, vì con mãi mơ màng trong giấc cô miên, như đã quên đi chính mình. Thế nên, khi niệm danh Cha là lúc con tưởng nhớ đến con, lay gọi con thức dậy, sự kiện này sẽ kích thích Tiểu Linh Quang sinh động lại, dần dần bừng tỉnh khỏi cơn mê trầm, để nắm lại quyền Chủ Nhơn Ông của nó. Nhờ đó, Tiểu Hồn sẽ từ từ thức giác, biết nó là ai, từ đâu đến và phải về đâu? Nó sẽ biết nó hơn dần dần, để càng lúc càng thức giác vai trò lãnh đạo của nó trong cái Tiểu Càn Khôn mà nó phải cai quản, để nó lo điều động tổ chức lại những trật tự đã bị hư hỏng vì sự mê ngủ của nó.

-So sánh việc niệm danh Cha và niệm A Di Đà.

Cho nên, niệm A Di Đà là đánh thức phần sáng suốt trong con. Niệm danh Thượng Đế là đánh thức trực tiếp chính con vậy. Và khi con đã thức dậy, sinh động lại, có nghĩa là thể tính sáng suốt trong con tự nhiên nó phải sinh động lại rồi, vì nó là một thành phần của con, con ngủ thì nó ngủ, con thức thì tự nhiên nó thức. Do vậy, để con thấy rằng niệm danh Thượng Đế tức là đã niệm A Di Đà trong đó rồi, khỏi có gì thắc mắc, sợ niệm danh Cha, bỏ niệm A Di Đà không mở được lục thông. Mở luôn chớ con! Vì khi chính con tỉnh dậy, phần sáng suốt trong con, dĩ nhiên sẽ sinh động lại, phát triển dần, các luân xa trong con nhờ đó mà mở và phát triển.Con ơi, Thượng Đế là càn khôn vũ trụ, niệm Thượng Đế là gồm cả càn khôn trong đó rồi. Mọi Phật, Tiên, Thần, Thánh đều có trong đó, con chẳng sợ thiếu thứ gì, các con khỏi phải lo vừa niệm Thượng Đế, vừa niệm cả Di Đà, Quán Âm v.v... Nhiều đứa, Cha thấy vừa niệm danh Cha, vừa niệm Di Đà, vừa niệm danh nhiều vị Phật khác. Nghĩ rằng nhiều vị như vậy “chc ăn” hơn, nhiều vị sẽ phò hộ cho mình tốt hơn! Nghĩ vậy, vì các con này chưa hiểu nguyên lý của Trời Đất, chưa hiểu nó là ai, chưa biết bản chất Thượng Đế của nó. Nó chưa thấy được sự vĩ đại của nó đến ngần nào. Nó không biết nó vốn dĩ là vị chúa tể cai quản cả càn khôn vũ trụ, Di Đà, Quán Âm, Đại Thế Chí v.v... thật sự, đều có trong bản thể nó, là những thành phần của nó, đều dưới quyền coi sóc quản trị của nó đó thôi! A Di Đà là phần sáng suốt tức thể Trí của nó, Quán Âm là tính yêu thương tức thể Bi của nó, Đại Thế Chí là ý lực tức thể Dũng của nó đó thôi.

Thế nào là chánh niệm ?

Các con, phần đông không hiểu chơn lý nên chỉ cầu Chúa, niệm Phật, niệm Thượng Đế, trong tinh thần ỷ lại vào sự cứu giúp, sự phò hộ, vì nghĩ rằng, các vị Phật, Chúa ấy ở đâu đâu ngoài con, chớ không hiểu rằng các vị này đều vừa có ở ngoài Đại Vũ Trụ, vừa có cả trong bản thể con nữa.

Đấy là những thể tính của Thượng Đế mà cũng là của con, và Thượng Đế chính thật là con đó! Chưa hiểu được điều này, mà chỉ cầu hoặc niệm để được sự phò hộ, sự cứu rỗi, đấy là còn mê tín, là vọng cầu, vọng niệm mà thôi! Đa số các con niệm Di Đà để xin Di Đà che chở, niệm Quán Âm để xin Quán Âm cứu nạn, giờ đây biết niệm danh Thượng Đế thường là cũngxin Thượng Đế cứu độ con thoát qua tai ách v.v... ấy là những vọng cầu, vọng niệm, vọng tưởng, vì con chưa hiểu con đó thôi! Vậy thế nào là chánh niệm?

Khi con niệm danh Thượng Đế, con phải hiểu con cũng đang niệm chính danh của con đó. Con vốn dĩ là Thượng Đế phân hồn ra thành Tiểu Linh Quang xuống đây đi học, con là Chủ Nhân Ông đang điều khiển cái Tiểu Thiên Địa của con, bản chất của con y như bản chất của Đấng Tạo Hóa muôn loài và khi đọc danh hiệu này, tâm thức con hãy hòa vào tâm thức của càn khôn, rung động cùng một nhịp với Đại Hồn Vũ Trụ. Đấy là con biết tưởng Thượng Đế như ý Thượng Đế muốn, và con cũng đã đặt con ở đúng vị trí của con. Niệm như vậy mới là biết niệm. Đấy là chánh niệm mà cũng là chánh kiến, chánh tín, chánh định, chánh tư duy của Phật Giáo đó con. Và Cha cho chúng con rõ, khi con biết chánh niệm, thì dù không cầu, không vọng, sự phò hộ chở che cứu giúp, con lại được hộ giúp, che chở hữu hiệu hơn, đắc lực hơn nữa. Tại sao? Lẽ dễ hiểu là vì kẻ vọng niệm phần trí tuệ chưa sáng bằng kẻ chánh niệm. Linh hồn nó yếu đuối và kém tiến hóa hơn vì chỉ biết hướng tới tha lực mà không biết tự lực, chỉ thấy sức mạnh bên ngoài mà không thấy sức mạnh có sẵn trong chính nó để biết tận dụng sức mạnh đó. Cho nên, khi con niệm để cầu được cứu giúp, điển của con không sáng bằng khi con biết chánh niệm. Vì nếu con biết chánh niệm, khi ấy điển trong bản thể con sẽ hòa cảm với khối điển sáng suốt của càn khôn. . .

Niệm danh Thượng Đế thì chơn thần con rung động, Tiểu Linh Quang lóe sáng hòa với khối Đại Linh Quang. Nhờ đó, đứa biết chánh niệm, sẽ tự bao quanh nó một khối lượng điển lành nhiều hơn đứa vọng niệm. Khối điển tốt lành đó sẽ che chở, hóa giải bớt cho nó điều khổ nạn do nghiệp lực khảo đảo nó, và nếu khối điển lành bao quanh, càng lớn chừng nào thì nó được hưởng sự che chở, sự hóa giải điều khổ nạn nhiều hơn chừng ấy, dù nó không cầu, không vọng sự cứu giúp phò hộ như kẻ vọng niệm. Ấy chính vì nó đã biết tự cứu, tự phò hộ, tự che chở nhờ hiểu được và biết tận dụng sức mạnh của chính nó có sẵn. Nhờ cái biết đó, mà nó đã tự bảo vệ nó hữu hiệu, trong khi kẻ vọng niệm, do ít sáng hơn nên không được hưởng bằng.

Cách niệm danh Thượng Đế :

Các con nên nhớ, khi niệm bất cứ điều gì, phải niệm trong tâm, niệm bằng tư tưởng, đừng niệm trong miệng khiến hao khí điển. Con nên ngậm miệng lại, co lưỡi răng kề răng bế kín khẩu. Động tác này sẽ giúp cho mạch Nhâm, mạch Đốc nơi đó được giao nhau và điển trong người con, lúc ấy sẽ được chuyển động liên tục, mà không bị thất thoát ra ngoài theo cửa khẩu do sự nối liền của hai mạch này. Nhờ vậy, mà điển lực trong con được sung mãn hơn. Cho nên trong ngày, nếu không có điều hữu ích hay cần thiết phải nói nên tịnh bớt khẩu, dành tâm trí niệm Cha để tâm đỡ tán loạn, bế miệng lại càng nhiều càng tốt để đỡ mất điển. Con nên nhớ, lo nghĩ nhiều thì thần tán, nói nhiều thì khí hao, dục nhiều thì tinh mất. Muốn đi vào thiên đạo, lên đến chỗ sáng suốt an lạc, các con phải rán giữ tam bửu: Tinh, Khí, Thần, lo vun bồi nó luôn luôn, để khỏi bị suy điển lực, khiến tiêu mòn dần sự sang suốt trong con.(hết phần trích dẫn)

Cách niệm và sự hữu ích khi niệm Danh Thầy:

-Thể thức niệm cũng giống như trên: miệng ngậm, co lưỡi , răng kề răng, niệm trong tâm: Nam Mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát, đồng thời sau mỗi câu niệm mình liền nghĩ điển quang mình hòa nhập với khối Đại Hồn Vũ Trụ hay hợp nhứt với khối Đại Linh Quang của Đức Chí Tôn Thượng Đế, và không xen tạp niệm nào khác.

-Về hữu ích của pháp môn nầy như phần giải thích trên:

Khi điển quang ta hòa nhập hay bao phủ bởi khối điển quang của Đức Chí Tôn sẽ hóa giải được nhiều khổ nạn do nghiệp lực mang đến. Tức là dù ta không cầu nguyện, tự nhiên nghiệp lực cũng được hóa giải, tránh bớt được những khổ nạn xảy đến cho ta.

Nếu ta niệm thường xuyên mỗi ngày, bất cứ lúc nào tâm trí không phải làm việc ta đều niệm danh Thầy thì điểm linh quang hay chơn linh ta sẽ trở nên sáng suốt sẽ dành lại quyền chủ nhơn ông chớ không còn bị sai khiến bởi thất tình lục dục.

Khi cúng đàn nơi Tòa Thánh hay Thánh Thất, chúng ta được hưởng điển lành chư Phật mang ra từ Bát Quái Đài bao trùm quanh ta để ta được hóa giải khổ nạn và được ngày càng sáng suốt hơn lên. Vậy pháp môn niệm danh Thầy và quán tưởng nầy cũng có cùng tác dụng, tại sao ta không thực hành.

Và hơn nữa khi nghiệp lực được hóa giải và tâm ta sáng suốt thì giờ phút lâm chung ta còn tỉnh táo để niệm danh Thầy thì Thầy độ cho ta giải thoát về cùng Thầy hay về cõi nào đó như Cực Lạc Thế Giới thì còn gì bằng.

Phải chăng đây là pháp tu mà Đức Chí Tôn đã dạy:

“. . .Thầy cho một quyền rộng rãi cho cả nhân loại Càn khôn Thế giái, nếu biết ngộ kiếp một đời tu đủ trở về cùng thầy đặng”.

Kết luận:

Chúng ta vừa luận qua vài pháp môn tu tập mà có thể được giải thoát khỏi luân hồi sanh tử trong một kiếp sanh . Những pháp môn nầy đều chú trọng đến cái tâm, như câu “vạn sự do tâm tạo” mà ta thường nghe. Cũng như lời Thánh giáo Đức Phật Mẫu:

Gắng sức trau giồi một chữ Tâm,

Đạo đời muôn việc khỏi sai lầm. . .

Tâm ta hướng về điều thiện sẽ hưởng được quả thiện, tâm ta hướng về giải thoát tức nhiên sẽ hưởng quả giải thoát. Hơn nữa, như pháp môn Tịnh độ hay niệm danh Thầy rất dễ tu tập mà không sợ những sơ xuất có hại nào. Điều cần là chúng ta có đức tin và nguyện lực mãnh liệt hay không. Khi giảng về pháp môn nầy chính Đức Phật Thích Ca cũng có nhấn mạnh: đây là pháp môn khó tin, nan tín chi pháp. Nhưng trải qua nhiều thế kỷ số người được vãng sanh có bằng chứng rất nhiều, trong Tịnh tông của nhà Phật.

Và chính ngày nay Đức Chí Tôn đến cũng có lời hứa về sự kêu danh Thầy trong lúc lâm chung không khác gì lời nguyện của Đức Phật A Di Đà. Chúng ta thầm hiểu rằng pháp môn nầy vẫn còn hiệu lực trong thời Hạ ngươn tam chuyển nầy.

Và đặc biệt gần đây chính điển quang Đức Thượng Đế khai thị về phương cách niệm danh Thượng Đế với lời giảng giải thật minh triết, mới lạ. Phải chăng đây cũng là một pháp môn của thời buổi Tam Kỳ, Đức Thượng Đế dùng nhiều phuơng tiện để tận độ chúng sanh cho kịp kỳ Long Hoa đại hội.

Chúng ta không dám coi thường việc lo lập công quả, hay việc phổ độ chúng sanh , nhưng vừa lập công vừa tập thêm pháp môn này lại càng gia tốc nhanh hơn để có thể đoạt được giải thoát trong một kiếp sanh . Nhất là những người già yếu, bệnh hoạn không còn sức để lập công quả nữa lại càng nên chuyên cần tập theo pháp môn này.

Chúng tôi cố gắng biên soạn một cách dễ hiễu, dễ thuyết phục mong sẽ là món quà hữu ích cho chư Đồng Đạo, đặc biệt những người có tâm nguyện tu hành thế nào để được một đời giải thoát..

HT Mai Văn Tìm

(12-2014)